Dụng cụ tử cung (vòng tránh thai) được làm từ chất dẻo mềm, một số được mạ đồng (như Cooper-7, Tcu380, Paragard). Một số loại có chứa progesteron (Progestasert), chất này dần được hấp thụ vào cơ thể phụ nữ. Cả hai loại dụng cụ tử cung mạ đồng và loại chứa hocmon đều sẽ hết hiệu quả và phải được thay thế. Các dụng cụ tử cung bằng chất dẻo (như Lippes Loops) đã được thiết kế để đặt lâu dài trong tử cung mặc dù các nhà sản xuất gợi ý phải thay thế sau 5 nǎm để phòng bệnh actinomyces. Phần lớn các loại dụng cụ tử cung không sẵn có tại Mỹ, chỉ có sẵn progestasert. Từ 1988 loại Paragard một dụng cụ hình chữ T phủ đồng do Howard Tatum thiết kế trở nên sẵn có và được chỉ định cho các phụ nữ đã sinh con nhiều lần và không có chống chỉ định.
Các loại dụng cụ tử cung (vòng tránh thai) không chứa hóc môn tránh được thai nhờ tạo ra phản ứng gây đáp ứng viêm tại chỗ làm dung giải phôi bào và tinh trùng, do đó ngăn cản được làm tổ của trứng do tăng lượng prostaglandin tạo thành tại chỗ. Ngoài đáp ứng viêm đó dụng cụ tử cung chứa đồng còn làm thay đổi hoạt tính của cacbonic anhydrada và phosphataza kiềm và có thể ngăn cản các hiệu ứng estrogen lên nội mạc tử cung và các tác dụng cụ progesterone cung cấp một liều vi lượng của hormon ngăn cản việc làm tổ. Các dụng cụ chứa đồng là phương pháp được dùng nhiều nhất để tránh thai ở nhiều nước thuộc thế giới thứ ba. Các dụng cụ tử cung chứa progestasert đặc biệt phù hợp với phụ nữ thống kinh (dysmennorrhea) hoặc ra kinh nhiều bởi vì progesteron của dụng cụ tử cung làm giảm cả hai hiện tượng khó chịu này.
Nếu đặt Dụng cụ tử cung trong vòng 12 ngày đầu tiên của kỳ kinh phải kiêng giao hợp sau khi đặt 2 tuần. Cũng có thể đặt vòng ngay sau khi chấm dứt thai kỳ.
Tác dụng phụ và tai biến: Các vấn đề phổ biến nhất của dùng dụng cụ tử cung là ra máu thấm giọt (10-15% số người dùng), kinh nguyệt nhiều, chảy máu giữa các kỳ kinh, điều này có dẫn đến thiếu máu, thiếu sắt. Những vấn đề khác bao gồm: tuột dụng cụ tử cung (5-25% số người dùng trong năm đầu, sau đó hiếm xảy ra) chuyển vị trí trong tử cung, trở thành cố định trong nội mạc lử cung và làm thủng dạ con.
Tai biến nghiêm trọng nhất là dụng cụ tử cung có thể đẫn đến viêm khung chậu, lúc đầu phát triển chậm và có thể tiến triển tới viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung và đôi khi áp buồng trứng – vòi trứng. Bệnh này thể hiện như hội chứng tiền kinh nguyệt (phù nề, ra máu giọt), khí hư có mùi hôi, ớn lạnh, chán ǎn, đau nhiều ở bụng dưới hoặc vô sinh. Nếu nghi ngờ một người dùng dụng cụ tử cung bị VKC thì phải tháo dụng cụ tử cung ngay. Theo dõi cẩn thận vấn đề thường có thể ngăn ngừa được bệnh VKC và các tai biến của bệnh này.
Trước khi đặt vòng, người phụ nữ cần chữa lành các viêm nhiễm hoặc u tử cung. Sau khi sạch kinh 2-3 ngày, sau khi đẻ sáu tuần mới được đặt. Sau đó, cần kiêng giao hợp trong hai tuần, tránh ngâm mình xuống nước, hàng ngày làm vệ sinh đầy đủ. Có như vậy mới ít bị tai biến.
Chống chỉ định: Những người bị viêm nhiễm cơ quan sinh dục, có tiền sử chảy máu âm đạo không rõ nguyên nhân và ung thư cơ quan sinh dục không được dùng dụng cụ tử cung. Người dùng dụng cụ tử cung cũng không được có bệnh để không đưa được một vật lạ vào cơ thể, ví dụ như viêm màng trong tim bán cấp, viêm cầu thận, suy thận, sa van hai lá hoặc mất miễn dịch. Lý tưởng là những người dùng dụng cụ tử cung không được có các yếu tố nguy cơ sau: có nhiều bạn tình, có tiền sử mắc bệnh viêm khung chậu, có nguy cơ mắc bệnh lậu hoặc chlamydia, chưa chửa đẻ lần nào, có tiền sử vô sinh, kinh nguyệt nhiều và đau.